Lào Cai có diện tích đất
tự nhiên 638.389,59 ha bao gồm nhiều tiểu vùng khí hậu, trong đó có 2 vùng đặc
trưng là khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới với điều kiện thời tiết tương đối phù
hợp để phát triển đa dạng các loại cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên, sản xuất
nông nghiệp ở Lào Cai cũng gặp nhiều khó khăn do diện tích đất giành cho sản
xuất nông nghiệp ít, chỉ chiếm trên 10% diện tích tự nhiên, lại bị chia
cắt mạnh, trong
khi trên 80% dân số sống bằng nghề nông nghiệp, trình
độ sản xuất và khả năng đầu tư cho sản xuất của nhân dân còn hạn chế do tỷ lệ
đói nghèo ở khu vực nông thôn còn cao. Sau
khi tái lập tỉnh, tỷ lệ đói nghèo lên tới >70%
số hộ, lương thực bình quân đầu người chỉ đạt gần 200kg/năm, cơ bản sản xuất
nông nghiệp ở Lào Cai vẫn còn rất lạc hậu.
Sau 25 năm tái lập tỉnh (1991 - 2016)
và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã vận dụng
sáng tạo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, các nghị quyết, chỉ thị của Trung
ương Đảng vào điều kiện cụ thể của tỉnh. Xác định tiềm năng, lợi thế so sánh,
từ đó tập trung đầu tư khai thác có hiệu quả, tạo bước phát triển đột phá, dồn
sức đầu tư cho khu vực nông thôn, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đặc
biệt khó khăn nhằm đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân các
dân tộc. Nông nghiệp - nông thôn - nông dân của tỉnh Lào Cai đã đạt được nhiều
thành tựu khá toàn diện. Bộ mặt nông thôn từng bước được đổi mới; đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân khu vực nông thôn đã được cải thiện, nâng cao rõ
rệt:
Thành tựu rõ rệt nhất của nông nghiệp là
tạo ra và duy trì quá trình tăng trưởng sản xuất với tốc độ nhanh trong thời
gian dài, đóng
vai trò quan trọng trong ổn định kinh tế và an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh. Giá trị
sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 9 - 10%/năm, đặc biệt là trong
nhiệm kỳ 2011-2015 trước diễn biến bất lợi của suy giảm kinh tế thế giới, sự
tăng trưởng của ngành nông nghiệp vẫn duy trì tốc độ trên 6% năm; Cơ cấu nội ngành nông nghiệp cũng có sự chuyển biến tích cực theo hướng
tăng tỷ trọng chăn nuôi, dịch vụ, giảm tỷ trọng trồng trọt. So với năm 1991 -
1992, tỷ trọng chăn nuôi - dịch vụ tăng từ 19,2% lên 40,9%; tỷ trọng ngành trồng trọt giảm từ 80,8% xuống còn 59,1% năm 2015.
Thành tựu lớn thứ hai là đã đảm bảo an
ninh lương thực. Trước năm 1990 lương thực bình quân đầu
người chỉ đạt khoảng 200kg/người/năm, tỷ lệ đói nghèo trên 70% năm. Từ sau khi tách tỉnh
được sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh phong trào thâm canh, tăng vụ, đưa giống mới
vào sản xuất được quan tâm đẩy mạnh nên năng xuất các loại cây trồng được tăng
lên rõ rệt. Năng xuất lúa từ 2 - 2,5 tấn/ha/vụ những năm đầu 1990 đã tăng lên
sấp sỉ 5 tấn/ha/vụ. Đặc biệt đã có bước đột phá trong việc nghiên cứu, ứng dụng
và chuyển giao khoa học kỹ thuật vào sản xuất, lai tạo sản xuất được bộ giống
mang thương hiệu Lào Cai như LC 25, LC212, LC 270, sản xuất được trên 300 tấn hạt giống lúa lai F1 và gần 20 tấn hạt giống lúa
bố mẹ, đáp ứng trên 60% nhu cầu giống lúa lai trên địa bàn tỉnh; phát huy được
lợi thế so sánh của Lào Cai với các tỉnh khác. Do việc đưa mạnh các giống lai,
giống kỹ thuật ngắn ngày vào sản xuất nên tạo điều kiện cho việc tăng vụ; tăng
năng suất, chất lượng từ đó thu nhập của người dân cũng tăng lên đáng kể. Sản lượng lương thực từ
91.133 tấn lên 281.880 tấn (tăng 190.747 tấn), lương thực bình quân đầu người tăng liên tục, đạt trên 417kg/người/năm 2015.
Thành tựu thứ ba là đã cơ bản xóa bỏ
tình trạng sản xuất tự cấp tự túc. Sản xuất nông nghiệp có bước phát triển tiến bộ khá toàn diện,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường
tiêu thụ. Các vùng sản xuất hàng hóa: lúa, ngô, chè, chuối, dứa… được hình
thành rõ; bước đầu xây dựng các vùng sản xuất có hiệu quả như: chuối cấy mô,
rau an toàn, hoa, cây ăn quả ôn đới. Nhờ áp dụng giống mới và kỹ
thuật tiến bộ trong khâu canh tác nên chất lượng nông sản được nâng cao, giá
trị sản xuất trên một đơn vị diện tích tăng nhanh, từ 6 triệu đồng/ha năm 1991
lên 51,42 triệu đồng/ha năm 2015. Trong chăn nuôi và thủy sản việc áp dụng tiến
bộ kỹ thuật cũng trở nên phổ biến, chuyển dịch chăn nuôi theo hướng tăng chất
lượng, hình thành các vùng chăn nuôi tập trung, trang trại, phương thức công
nghiệp, sử dụng giống tốt, thức ăn công nghiệp, đảm bảo an toàn dịch bệnh...
Thuỷ sản từ chỗ khai thác tự nhiên, đã phát triển nuôi trồng thuỷ sản đa dạng, hiệu
quả cao như cá nước lạnh, rô phi đơn tính, cá chép lai...; diện tích, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản tăng nhanh, từ sản xuất tự cấp tự túc trong phạm vi
các hộ gia đình những năm 1990 - 1991, đã chuyển sang sản xuất thâm canh, hàng
hóa. Lâm nghiệp được phát triển theo hướng xã hội
hoá và bền vững, phát triển mạnh rừng kinh tế, gắn xây dựng vùng nguyên liệu
với các cơ sở chế biến nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế rừng và thu nhập từ rừng;
diện tích rừng được quản lý bảo vệ tốt, đặc biệt đã chuyển từ hoạt động khai
thác là chính sang bảo vệ rừng tự nhiên, tăng cường giao khoán bảo vệ rừng,
thực hiện chủ trương rừng có chủ nên rừng tự nhiên được khôi phục nhanh. Tỷ lệ che phủ rừng từ 18,2% năm 1991 lên trên 53,3% năm
2015; Sản
xuất phát triển đã cung cấp đủ cho nhu cầu thị trường trong tỉnh, có nhiều sản
phẩm xuất bán ra ngoài tỉnh và xuất khẩu.
Thành tựu thứ tư là Nông nghiệp đã tạo
nhiều việc làm, xoá đói giảm nghèo. Đời sống của
người dân nông thôn được cải thiện rõ rệt, tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ trên
70% năm 1991 xuống còn 12,11% năm 2015. Kinh tế nông thôn phát triển theo hướng đa
dạng hoá ngành nghề, tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ, giảm sản xuất
thuần nông, một số làng nghề truyền thống được khôi phục. Đặc biệt trong triển
khai chương trình Xây dựng nông thôn mới đã tập hợp sức mạnh
đoàn kết, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, các tổ chức, doanh
nghiệp và toàn thể nhân dân. Đến
nay toàn tỉnh có 21 xã đạt chuẩn nông thôn mới; Bình quân số tiêu chí đạt chuẩn/xã: 9,63 tiêu chí, chỉ còn 9 xã dưới 5
tiêu chí.
Phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn được xác định là nhiệm
vụ trọng tâm, lâu dài.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) xác định: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu
kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; phát triển
nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn
với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011 - 2020 khẳng định: Phát triển
nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên
suốt trong Chiến lược. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu
tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri
thức. Phát
triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng tiếp tục xác định mục tiêu: Đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững,
phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại tổng thể và
đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chú trọng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ XV (nhiệm kỳ 2015-2020) xác
định “Phát triển Nông, lâm nghiệp và xây dựng nông thôn là trọng tâm; phát
triển thương mại - du lịch, dịch vụ là đột phá; phát triển công nghiệp là quan
trọng” Tập trung nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng
nông thôn mới, chú trọng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, phát
triển sản xuất hàng hóa tăng thu nhập và nâng cao đời sống của nông dân.